Đang quen với phố biển Vũng Tàu, ngày theo chồng về Mỹ chị Hoài Nhân sốc khi học cuốc đất, trồng rau trong thung lũng nằm lọt thỏm giữa núi đồi bang Arkansas.

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ I (nhiệm kỳ 1988 - 1993)

Đại hội Hội Nông dân Việt Nam lần thứ I

Đại hội được tổ chức từ ngày 28 - 29/3/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.

Dự đại hội có 613 đại biểu đại diện cho 11.188.789 cán bộ, hội viên nông dân. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí.

Đồng chí Phạm Bái, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nhiệm kỳ nhiệm kỳ 1988 - 1993

Đồng chí Phạm Bái - Ủy viên Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Các đồng chí Hoàng Hồng Thất, Nguyễn Thành Thơ, Cầm Ngoan, Nguyễn Thị Huệ được bầu làm Phó Chủ tịch.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 6 (khóa I) tại Hà Nội, từ ngày 30/10 - 2/11/1991 đã bầu đồng chí Hoàng Hồng Thất, Phó Chủ tịch Thường trực làm Quyền Chủ tịch Hội thay đồng chí Phạm Bái nghỉ hưu theo chế độ.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 7 (khóa I) tại Hà Nội, họp từ ngày 2 - 5/6/1992 đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), Ủy viên Trung ương Đảng giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.

Tại Đại hội này, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước - Trường Chinh thay mặt Đảng, Nhà nước đã trao tặng Huân chương sao Vàng, Huân chương cao quý nhất cho giai cấp nông dân Việt Nam.

Đại hội đã đánh dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường lịch sử vẻ vang gần 6 thập kỷ, mở ra giai đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam; từ đây, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân chính thức được thành lập, có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở.

Sự kiện quan trọng này một lần nữa khẳng định những quan điểm đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.

Đại hội III Hội Nông dân Việt Nam (nhiệm kỳ 1998 - 2003)

Đại hội Hội Nông dân Việt Nam lần thứ III

Đại hội được tổ chức từ ngày 17 - 20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội.

Dự đại hội có 700 đại biểu đại diện cho 7.215.544 cán bộ, hội viên nông dân. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành.

Đồng chí Nguyễn Đức Triều, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nhiệm kỳ 1998 - 2003

Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Lê Văn Nhẫn, Lê Văn Sang (Hùng Kháng).

Đại hội đã khẳng định quyết tâm tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đồng thời tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 3 (khóa III), họp từ ngày 28 - 29/1/2002 tại Hà Nội đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Quảng Nam giữ chức Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 11 (khóa III), từ ngày 17 - 18/6/2003 tại Hà Nội đã bầu bổ sung các đồng chí: Phạm Quang Tôn, Trưởng ban Kinh tế - Xã hội Hội Nông dân Việt Nam; đồng chí Lê Hoàng Minh, Trưởng Ban Dân vận tỉnh Bạc Liêu làm Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.

Thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương

Bác Hồ đi thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa năm 1950.

Giai đoạn cách mạng 1945-1954, Việt Nam Nông dân cứu quốc Hội mới chỉ hình thành và hoạt động từ cấp tỉnh trở xuống.

Đến cuối năm 1949, để tăng cường và kiện toàn tổ chức cơ sở Hội và thành lập tổ chức Hội ở cấp Trung ương, Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ nhất họp từ ngày 28/11 đến ngày 07/12 năm 1949 đã nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau này đổi tên là Ban Liên lạc nông dân toàn quốc).

Về nhiệm vụ trong thời kỳ này, đáp ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông dân cả nước đã đoàn kết, hăng hái tham gia thực hiện cùng một lúc 2 nhiệm vụ chiến lược là “Kháng chiến” và “Kiến quốc”:

Đại hội II Hội Nông dân Việt Nam (nhiệm kỳ 1993 - 1998)

Đại hội Hội Nông dân Việt Nam lần thứ II

Đại hội được tổ chức từ ngày 15 - 19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.

Dự đại hội có 600 đại biểu đại diện cho 7.269.982 cán bộ, hội viên nông dân. Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành.

Đồng chí Nguyễn Văn Chính, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nhiệm kỳ nhiệm kỳ 1993 - 1998

Đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.

Các đồng chí Nguyễn Đức Triều, Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyễn Thị Huệ được bầu làm Phó Chủ tịch.

Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.

Đại hội đã xác định phương hướng chung là: Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới đáp ứng nhu cầu lợi ích thiết thực của hội viên, nông dân; xây dựng cơ sở hội vững mạnh về mọi mặt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào nông dân phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 2 (khóa II), họp từ ngày 1 - 3/3/1994 tại TP Hồ Chí Minh đã bầu bổ sung đồng chí Lò Văn Inh giữ chức Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.

Tại Hội nghị Trung ương Hội lần thứ 5 (khóa II), họp tại Hà Nội từ ngày 9 - 10/1/1997 đã bầu đồng chí Nguyễn Đức Triều, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Văn Chính được bố trí công tác mới.

Thành lập Tổng Nông hội Đông Dương

Từ năm 1925 đến năm 1929, các phong trào đấu tranh của nông dân phát triển rộng khắp với số người tham gia ngày càng đông tại các tỉnh, thành phố. Trong đấu tranh, giai cấp nông dân được tôi luyện và dần trưởng thành.

Nhiều tổ chức của nông dân đã hình thành, như hội lợp nhà, hội hiếu hỷ, hội tương tế được nông dân hoặc các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ra nhằm bảo vệ quyền lợi của nông dân; nhiều vùng nông thôn đã trở thành “làng Đỏ”.

Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng tại Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua Luận cương chính trị trong đó xác định nhiều vấn đề quan trọng đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi.

Hội nghị đã ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ: “Phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương tổng Nông hội. Phải tổ chức đội tự vệ của nông dân”.

Hội nghị đã ra Nghị quyết về việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (Tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) và thông qua Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích: nhằm thống nhất hết thảy Tổng Nông hội Đông Dương để đấu tranh, bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân để thực hiện cách mạng thổ địa.

Đội tự vệ đỏ ở Hòa Quân - Đông Sớ - Nghệ An (1930-1931).

Giai đoạn cách mạng 1931-1935, tổ chức Hội nông dân có tên gọi chung là Nông hội đỏ. Về nhiệm vụ, ngày 20/3/1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ; chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của Nông hội đỏ là: củng cố khối bần, cố nông, đoàn kết với trung nông, động viên được tầng lớp phú nông và trung nông hăng hái tham gia mọi công tác cách mạng; rèn luyện vai trò vô sản lãnh đạo nông thôn; đẩy mạnh tổ chức Nông hội làng; đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống chiến tranh.

Giai đoạn cách mạng 1936-1939, tổ chức Hội và nông dân đã tích cực tham gia phòng trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.

Về tên gọi, tháng 3/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và quyết định đổi tên Nông hội đỏ thành Nông hội.

Về nhiệm vụ, Nông hội có nhiệm vụ thu hút đông đảo nông dân đoàn kết đấu tranh đòi cứu tế nạn đói, giảm tô, giảm tức, cải cách hương thôn, đòi chia lại ruộng đất công, chống sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ, chống nạn cướp ruộng đất…

Bên cạnh đó, Nông hội các cấp còn có nhiệm vụ quán triệt chủ trương đường lối của Đảng, vận động, giáo dục và tổ chức nông dân tại các vùng, miền trong cả nước hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Giai đoạn cách mạng 1939-1945, tại Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 đã thông qua Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Trong đó nêu rõ: chính sách hiện tại của Đảng là chính sách cứu quốc, cho nên mục đích của các hội quần chúng cũng xoay về cứu quốc là cốt yếu. Vì vậy: “Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc Hội”.

Tại Điều lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc Hội được Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 thông qua đã nêu rõ: tôn chỉ mục đích, nhiệm vụ chủ yếu là: Liên hiệp tất cả hết thảy các hạng nông dân yêu nước để bênh vực quyền lợi hàng ngày cho nông dân và cùng các đoàn thể khác chuẩn bị đánh Pháp, đuổi Nhật giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam.